Môt công bố nghiên cứu gây sốc chỉ ra vụ che đậy virus đầu tiên của Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) cách đây 20 năm liên quan dịch bệnh SARS, được xem như trường hợp tiền lệ của COVID-19. Đây là tiết lộ mới nhất của phóng viên điều tra nổi tiếng người Anh Ian Birrell.

p2688141a190297472 ss
(Ảnh minh họa chụp màn hình video)

Ian Birrell từng là người viết bài phát biểu cho cựu Thủ tướng Anh David Cameron. Vào ngày 2/7, ông đã xuất bản một báo cáo trên tờ “The Mail on Sunday” chỉ ra mô thức hành vi của ĐCSTQ trong hai lần đại dịch virus corona: che đậy và xuyên tạc thông tin.

Hồi cuối năm 2002, ở vùng ven biển phía nam Trung Quốc thuộc tỉnh Quảng Đông có một số đầu bếp và người buôn bán động vật mắc một chứng bệnh lạ về đường hô hấp khiến họ ho, sốt và khó thở. Khi đó cơ quan chức năng Trung Quốc gọi nó là “bệnh phổi lạ”, nhưng tên quốc tế chính thức là SARS.

Một số người làm việc trong các nhà hàng giết mổ động vật tại chỗ cho thực khách, một người khác cung cấp cho họ các loại động vật này, và một người khác bán rắn ở khu chợ bẩn thỉu tại địa phương chất đầy những cái chuồng nhốt. Căn bệnh bí ẩn này đã gây sốc cho các bác sĩ vì khả năng truyền nhiễm cao. Sau khi người bán rắn chết, vợ anh ta và một số nhân viên y tế điều trị cho anh ta cũng đổ bệnh, và ít nhất hai người nấu ăn ở bệnh viện khác gần đó đã thành nguồn lây dịch bệnh.

Những sự kiện này đánh dấu sự khởi đầu của đại dịch toàn cầu về Hội chứng hô hấp cấp tính nghiêm trọng (SARS): loại virus corona mới gây chết người gần như chắc chắn có nguồn gốc từ dơi này đã lây nhiễm cho hàng ngàn người ở 30 quốc gia, trong đó có 4 khu vực ở Anh.

May mắn thay, mặc dù có độc tính chết người và những ảnh hưởng khủng khiếp đối với người già, nhưng chỉ khiến 774 người thiệt mạng trên toàn thế giới (bao gồm cả dữ liệu giả mạo từ ĐCSTQ), và đại dịch đã bị xử lý ổn thỏa trong vòng vài tháng. May mắn thoát khỏi thảm họa sức khỏe toàn cầu này là lời cảnh báo cho thế giới về sự nguy hiểm của một mầm bệnh mới. Nhưng cảnh báo đó đã không được chú ý và gần hai thập kỷ sau đó là một hậu quả thảm khốc.

Trước những sự kiện gần đây cũng cho thấy vòng luẩn quẩn quen thuộc nguy hiểm trong cách hành động trước thảm hỏa của một chế độ độc tài: dối trá về tình hình, bịt miệng giới chuyên gia, che đậy dữ liệu, lừa dối các cơ quan y tế toàn cầu, và đổ lỗi cho nơi khác.

Năm sau đó có một vụ rò rỉ trong phòng thí nghiệm hàng đầu của nhà nước ở Trung Quốc khiến căn bệnh này lại bùng phát một thời gian ngắn, trước đó là hai lần lây nhiễm xảy ra tại các trung tâm nghiên cứu an toàn cao ở Đài Loan và Singapore. Không có gì ngạc nhiên khi Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) cảnh báo “các phòng thí nghiệm này là mối đe dọa lớn nhất đối với việc tái lan truyền SARS-CoV”. Giờ đây, phản ứng nham hiểm của ĐCSTQ đối với hai đợt bùng phát này đã nổi bật trong một bài báo mới gây sốc do CBRNe World xuất bản. CBRNe World là tạp chí được giới chuyên gia công bố nghiên cứu về các mối đe dọa sinh học, hóa học và hạt nhân.

Milton Leitenberg, một nhà nghiên cứu cấp cao tại Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế và An ninh tại Đại học Maryland Mỹ, cho rằng SARS đã dạy cho ĐCSTQ rằng họ có thể “đánh lừa, thông tin sai và thao túng” mà hậu quả phải chịu không đáng kể. Ông nhấn mạnh tình trạng đã được củng cố thêm vào đợt bùng phát lây nhiễm trong phòng thí nghiệm sau đó, để rồi tiếp tục được áp dụng trong đại dịch theo “phong cách tích cực và liều lĩnh”: phủ nhận, che đậy, vu khống nguồn gốc, trì hoãn và xuyên tạc thông tin trên quy mô lớn.

Thật hấp dẫn, ngay lập tức ĐCSTQ đổ lỗi COVID-19 vào một chợ động vật ở Vũ Hán. Với sự hỗ trợ của các tổ chức khoa học, ĐCSTQ khẳng định rằng đó là “lây lan” tự nhiên của động vật chứ không phải bất kỳ hiện tượng bất thường nào trong phòng thí nghiệm. Vấn đề này hiện đã bị lật tẩy.

Vậy thì, điều gì đã xảy ra trong đợt bùng phát dịch SARS đầu tiên?

Vào ngày 16/11/2002, trường hợp đầu tiên được truy tìm là một bệnh nhân ở Phật Sơn. Thành phố này khác Vũ Hán, nằm trong một khu nhiều tai tiếng về những món lạ. Với sự gia tăng các trường hợp mắc bệnh, nhiều trường hợp liên quan đến buôn bán động vật, và sau đó lây lan cho các thành viên trong gia đình và nhân viên y tế cho thấy dấu hiệu lây truyền sang người rất rõ ràng. Các quan chức y tế cảnh báo đây là một căn bệnh mới giống viêm phổi.

Nhưng phản ứng của ĐCSTQ là bóp nghẹt thông tin. Vậy là phải mất thêm ba tháng rưỡi nữa Trung Quốc mới nhận ra dịch bệnh, vào thời điểm đó dịch bệnh này đã lan ra khắp thế giới, đã khiến nhiều người cảm nhiễm và mất mạng.

Ngày 20/1/2003, ĐCSTQ cử các chuyên gia đến thủ phủ tỉnh Quảng Đông là thành phố Quảng Châu để điều tra, nhưng báo cáo mà họ đệ trình một tuần sau đó được đánh dấu “Tối mật” và không được chia sẻ với WHO.

Ngay dịp đón năm mới giới, chức ĐCSTQ đã áp đặt lệnh phong tỏa tin tức, nhưng vào thời điểm đó vấn đề kiểm soát xã hội Trung Quốc của nhà cầm quyền còn buông lỏng nên đầy rẫy tin đồn. Một tin nhắn cảnh báo về “bệnh cúm chết người” đã được chia sẻ 126 triệu lần trong ba ngày.

Sau khi những câu chuyện này được đưa tin trên các tờ báo Hồng Kông, WHO đã yêu cầu câu trả lời. Chính phủ ĐCSTQ thừa nhận có dịch bệnh, nhưng khẳng định trong tầm kiểm soát. Vài ngày sau, các quan chức ĐCSTQ tuyên bố rằng virus là do khuẩn thuộc chi chlamydia, là một bệnh nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục. Nhưng dịch bệnh đang lây lan mạnh và ảnh hưởng nặng cho giới nhân viên y tế, riêng ở Quảng Châu đã có hơn 400 người bị bệnh. Doanh số bán loại giấm được cho là có thể ngăn ngừa căn bệnh này cũng theo đó gia tăng.

Giống như COVID-19, ĐCSTQ không chịu cho giới chuyên gia bên ngoài hỗ trợ. Ngày 23/2 [năm 2003], WHO đưa tin cơ quan y tế Trung Quốc đã thông báo hết dịch ở Quảng Đông. Nhưng trước đó hai ngày có một bác sĩ chuyên khoa phổi đang điều trị cho bệnh nhân tại một bệnh viện Quảng Châu đã bắt xe sang Hồng Kông để dự đám cưới, hệ quả chỉ một khoảng thời gian ngắn ở trong khách sạn đã lây nhiễm cho nhiều hành khách cùng tầng mang những quốc tịch khác nhau gồm Canada, Singapore, Việt Nam.

Căn bệnh này đã lây lan khắp thế giới, và sau đó hơn 4.000 trường hợp đã được truy đến nguyên nhân từ một chuyến đi qua đêm của vị bác sĩ này, và virus đã nhiễm vào 14 người bạn đồng hành của ông ấy.

Một người dân Hồng Kông bị bệnh đã lây nhiễm bệnh cho hơn 100 nhân viên trong một bệnh viện dạy học lớn. Một phụ nữ Singapore khi về nước đã lây nhiễm cho 90 người. Vài ngày sau, một bà mẹ Canada chết ở Toronto sau khi lây nhiễm cho con trai và một số nhân viên y tế. Một tuần sau khi người phụ nữ Canada qua đời, WHO đã công bố cảnh báo toàn cầu trong khi không thấy có động thái gì với ĐCSTQ. Hai tuần sau, vào ngày 25/3, lần đầu tiên trong lịch sử 55 năm tổ chức này đưa ra cảnh báo khẩn cấp về du lịch hàng không.

Cùng ngày, một phụ nữ bị nhiễm bệnh đã bay từ Singapore về Anh và một tuần sau đó phải nhập viện tại bệnh viện Manchester. Ba người Anh khác đã được xuất viện sau khi được điều trị tại London.

Căn bệnh này được đặt tên là SARS, và tên khoa học của virus là SARS-CoV, một dạng như virus của căn bệnh xuất hiện sau đó ở Vũ Hán được gọi là SARS-CoV-2 (tức COVID-19). Vào cuối tháng 3/2003, cuối cùng ĐCSTQ đã thừa nhận virus lây lan ra các vùng bên ngoài Quảng Đông, nhưng cáo buộc Hồng Kông là nguồn gốc, cũng như trong vụ đánh bom ở Bắc Kinh họ đã đưa ra nhiều cáo buộc vô căn cứ nhắm vào Thái Lan.

Vài ngày sau, một lần nữa ĐCSTQ tuyên bố rằng căn bệnh “đã được kiểm soát”, cuối cùng đã cho phép một nhóm điều tra của WHO vào cuộc trong vòng 8 ngày nhưng không cho họ đến trung tâm dịch bệnh, không cung cấp các mẫu đã hứa và từ chối cho phép họ đến thăm bệnh nhân tại các bệnh viện ở Bắc Kinh. Dù sau đó có cho phép họ vào bệnh viện nhưng lại giấu bệnh nhân đi và không cho WHO biết số ca bệnh thực tế.

Thời điểm đó, biên tập viên của tạp chí trực tuyến ChinaFile, cũng là phóng viên của tạp chí Time ở Trung Quốc là Susan Jakes kể lại: “Các bác sĩ nói với tôi rằng họ được lệnh chuyển các bệnh nhân liên quan tại ba bệnh viện khi các thanh tra của WHO đến. Ở một bệnh viện chỉ trong vài giờ là chuyển xong những bệnh nhân bằng xe cấp cứu, ở bệnh viện khác họ được đưa xuống tầng hầm”.

Trước mức độ nghiêm trọng của sự việc, không có gì ngạc nhiên khi nhiều bác sĩ tức giận vì trò lừa dối, bởi hàng chục đồng nghiệp đang mắc bệnh. Một nhà virus học cho biết: “Các bác sĩ ở Bắc Kinh đã nghe theo lời các chính trị gia, vì vậy họ không yêu cầu khẩu trang, kính bảo hộ hay găng tay. Họ tin vào những lời tuyên truyền này”.

Sau khi Bộ trưởng Bộ Y tế của ĐCSTQ tuyên bố tại Bắc Kinh chỉ có 12 trường hợp bị nhiễm và 3 trường hợp tử vong, một bác sĩ tố giác dũng cảm từ một bệnh viện quân đội đã liên lạc với phóng viên Susan Jakes để tiết lộ thực tế tình hình. Bác sĩ Tưởng Nghiêm Vĩnh (Jiang Yanyong) cho biết các nhân viên y tế rất tức giận, vì một bệnh viện quân đội đã có 60 bệnh nhân SARS và 7 người thiệt mạng. Ông nói: “Tôi không thể tin được những gì mình đã nghe. Tôi có trách nhiệm hỗ trợ các nỗ lực quốc tế và địa phương để ngăn chặn sự lây lan của SARS”.

Phóng viên điều tra Ian Birrell đặt câu hỏi: “Đây là lý do tại sao Trung Quốc dưới thời nhà lãnh đạo Tập Cận Bình nhanh chóng đàn áp các bác sĩ cố gắng cảnh báo về COVID-19 ở Vũ Hán, sau đó vào năm ngoái trục xuất các phóng viên của các tổ chức thông tấn Mỹ và Úc?”

Bốn tháng trước, phóng viên BBC John Sudworth cũng đã bị đuổi khỏi Trung Quốc vì cố gắng điều tra một khu mỏ nơi các nhà nghiên cứu virus corona tại Viện Virus học Vũ Hán thường đến lấy mẫu dơi.

Ít nhất là vào năm 2003, WHO thời cựu Thủ tướng Na Uy Brundtland (Gro Harlem Brundtland) lãnh đạo đã rất cứng rắn khi phát hiện ĐCSTQ công bố báo cáo dịch bệnh không đúng, hoàn toàn khác thái độ lấy lòng ĐCSTQ của WHO dưới thời Tổng giám đốc Ethiopia Tedros Adhanom Ghebreyesus.

Vào thời điểm đó, WHO cáo buộc Trung Quốc đã gây hiểu lầm cho công chúng và nói dối về số trường hợp mắc bệnh. Ông Brundtland yêu cầu: “Lần tới hãy can thiệp càng nhanh càng tốt khi phát hiện trường hợp bệnh mới kỳ lạ phát sinh ở bất kỳ đâu trên thế giới”.

Áp lực này từ các bác sĩ và WHO đã buộc ĐCSTQ phải hành động. Nhà lãnh đạo của ĐCSTQ vào thời điểm đó là ông Hồ Cẩm Đào đã ra lệnh cho các quan chức chấm dứt báo cáo giảm thiểu dữ liệu, cách chức Bộ trưởng Bộ Y tế, và Chính phủ của ĐCSTQ thừa nhận rằng số trường hợp nhiễm cao gấp 10 lần. Trong vòng 3 tháng dịch bệnh toàn cầu đã được kiểm soát nhờ việc thực hiện các biện pháp mới như hạn chế đi lại, máy quét nhiệt sân bay, cách ly, truy tìm tiếp xúc và đeo khẩu trang ở những nơi bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Bác sĩ kiêm Bộ trưởng Y tế Singapore Balaji Sadasivan nói với New York Times: “Tôi nghĩ chúng ta chưa từng thấy điều gì như thế này trước đây. Đây là cuộc chiến dùng nhiệt kế và kiểm dịch”.

Đợt dịch đã được kiểm soát với mức 8.098 trường hợp mắc và 774 trường hợp tử vong. Đây là kiếp nạn thoát được trong may mắn, vì SARS gây tử vong nhiều hơn COVID-19, nhưng mọi thứ được làm rõ ràng kịp thời trước khi dịch có thể lây lan rộng rãi hơn, khác với đại dịch ở thời người kế nhiệm sau này. Thậm chí trước khi đại dịch SARS kết thúc, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng virus này có từ cầy vòi mốc là một trong những thành phần chính trong các món súp phổ biến ở Quảng Đông, ngoài ra còn có thịt rắn và hoa cúc (trà).

Thật kỳ lạ, trong đại dịch COVID-19 này, mặc dù đã có nhiều nỗ lực điều tra, bao gồm cả việc kiểm tra hơn 80.000 mẫu, nhưng các nhà nghiên cứu vẫn không thể tìm thấy bất kỳ khả năng lây lan SARS-CoV-2 nào từ dơi sang vật chủ động vật rồi qua người.

Trong những tháng tiếp theo, một loạt sự cố liên quan đến SARS đã xảy ra trong phòng thí nghiệm, gần như gây ra làn sóng thứ hai, phơi bày vấn đề an toàn của cơ quan nghiên cứu được bảo mật cao và nỗi ám ảnh bí mật của ĐCSTQ. Sự cố đầu tiên là một vấn đề nhỏ nhặt, liên quan đến một sinh viên ở Singapore. Lần thứ hai nghiêm trọng hơn, xảy ra trong một phòng thí nghiệm quân sự có mức độ an ninh cao nhất Đài Loan, giống như Viện Virus học Vũ Hán do Pháp cung cấp thiết bị. Hơn 90 người đã phải bị cách ly.

Từ tháng 2 – 4/2004, ít nhất bốn trường hợp nhiễm sơ cấp đã xảy ra do cách làm việc tắc trách của phòng thí nghiệm Trung Quốc, lây cho thêm 11 người gồm một y tá điều trị cho bệnh nhân, hệ quả phải cách ly gần 1.000 người. Những trường hợp này bắt đầu từ một phòng thí nghiệm nghiên cứu virus do Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc (CCDC) quản lý, trước khi trung tâm nghiên cứu virus hàng đầu của Trung Quốc là Viện Virus học Vũ Hán bắt đầu hoạt động.

Hai trường hợp đầu tiên chưa bao giờ được tiết lộ chính thức, chỉ xuất hiện dưới sự tiết lộ của các phóng viên điều tra Trung Quốc. Cuối cùng, WHO đã cử một nhóm, mặc dù họ không đưa ra báo cáo, khác với những sự cố trước đây ở Singapore và Đài Loan.

Vấn đề lỗi hệ thống, bao gồm một tủ lạnh chứa các mẫu SARS được chuyển ra hành lang bên ngoài phòng thí nghiệm để lấy không gian, dẫn đến một số quan chức cấp cao bị “phạt hành chính”. Họ bao gồm Đông Tiểu Bình (Dong Xiaoping) – Phó giám đốc Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Trung Quốc và hiện đang là đồng giám đốc của cơ quan này, và một quan chức cấp cao khác mà tháng 2/2020 đã từng được vào nhóm nghiên cứu đầu tiên của WHO tham gia điều tra nguồn gốc đại dịch COVID-19. Sau đó, cơ quan này thông báo rằng khả năng rò rỉ trong phòng thí nghiệm là cực kỳ nhỏ.

Sáu năm trước, quân đội ĐCSTQ đã xuất bản một cuốn sách tuyên bố SARS có nguồn gốc từ một phòng thí nghiệm bên ngoài Trung Quốc, tương tự như cách các quan chức của họ hiện nay vu khống nguồn gốc của đại dịch từ một trung tâm nghiên cứu quân sự của Mỹ.

Ông Hoàng Nghiêm Trung (Huang Yanzhong), một nhà nghiên cứu cấp cao về các vấn đề sức khỏe toàn cầu tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại Mỹ cho biết: “Chúng tôi nghĩ SARS sẽ là bước ngoặt trong việc đối phó với căn bệnh này, từ đây họ sẽ học được bài học minh bạch. Nhưng mô hình không có gì khác, sau khi bùng phát đại dịch tại Vũ Hán họ vẫn cứ che đậy, phủ nhận, không hợp tác hành động”.

Ông nói đúng. Có nhiều điểm tương đồng đáng lo ngại giữa hai vụ việc, thậm chí cả thời điểm xuất hiện và lo ngại từ giới quan chức địa phương về tác động của các hành động [liên quan đại dịch] có thể làm ảnh hưởng cho hội nghị của Đảng hoặc ngày lễ của Trung Quốc, dù chỉ có một nguyên nhân rõ ràng là [dịch bệnh] do động vật hoang dã.

Ông Tom Tugendhat thuộc Đảng Bảo thủ, Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Anh cho biết: “Chế độ độc tài là nguồn gốc dối trá ai nấy sợ [nói thật] mỗi sai lầm có thể gây tổn thất (cá nhân). Ngày nay ở Trung Quốc cũng không ngoại lệ, nhưng lần này tất cả chúng ta đều phải trả giá (vì chúng)”.

Thành Dung, Vision Times

Xem thêm: