Ngày nay, người ta hay mắng những kẻ khoe khoang, tự cao tự đại, hoặc có thói quen che dấu sự kém cỏi bằng diện mạo bên ngoài là “sĩ” hay “sĩ diện”. Nhưng thực ra từ “sĩ diện” không có nghĩa xấu như vậy. Hàm ý được thêm vào kia là sản phẩm của một thời tốt xấu đảo điên và người trí thức bị xem là ung nhọt…

Từ “sĩ diện” là một từ ghép của tiếng Việt, gồm hai từ Hán-Việt, là “sĩ” “diện” ghép thành. “Diện” có nghĩa là vẻ ngoài, còn “sĩ” nghĩa là người có học thức thời cổ, là người trí thức.

Trí thức thời cổ đại được xếp là những người đứng đầu trong bốn kiểu người trong xã hội là “sĩ, nông, công, thương”. Bấy giờ trí thức được xem là những người có Đạo, phải thành thục về cả hai phương diện tu dưỡng đạo đức và học thức. Lẽ thường, đối với một người mà nói, vẻ ngoài có học thức, sang trọng quý phái, lịch lãm trầm ổn, là điều mà ai cũng hướng đến. Người trí thức hiểu biết lễ nghĩa, giữ “sĩ diện” cũng là một lẽ tự nhiên.

Từ “sĩ diện” ngày nay lại thường dùng để chỉ những kẻ khoe khoang, tự cao tự đại, thích làm ra vẻ có học thức, ví như mắt sáng mà lại giả vờ đeo kính cận. Nhưng thực ra, ẩn đằng sau hàm ý đó còn lại sự chê bai và miệt thị những người trí thức. Nguyên nhân sâu xa của nó chính là sự ảnh hưởng của những cuộc vận động chống trí thức tại Trung Quốc đối với Việt Nam. Chúng là phong trào do Đảng Cộng sản Trung Quốc (ĐCSTQ) phát động.

Cuộc vận động chống trí thức

Vào năm 1956, sau một thời gian chém giết qua các cuộc vận động, ĐCSTQ đột nhiên thay đổi. “Phong trào Trăm hoa đua nở” đã được phát động, khuyến khích công chúng, đặc biệt là trí thức, phê bình Đảng và đưa ra giải pháp cho các chính sách quốc gia của Đảng. Đảng hứa hẹn sẽ không “chụp mũ”, không “đánh đập”. Điều ấy làm cho người dân Trung Quốc hân hoan như được cởi trói.

“Chính quyền cần sự phê bình của nhân dân”, Thủ tướng Trung Quốc bấy giờ là Chu Ân Lai nói. “Nếu không có sự phê bình này thì chính quyền sẽ không thể hoạt động như một Chế độ Chuyên chính Dân chủ Nhân dân. Vì vậy, cơ sở của một chính quyền lành mạnh sẽ bị mất… Chúng ta phải học từ những sai lầm cũ, tiếp thu tất cả các hình thức phê bình lành mạnh, và làm những gì mà chúng ta có thể để trả lời những ý kiến phê bình này.”

Vào năm 1957, hàng triệu bức thư được gửi tới văn phòng của Thủ tướng Chu Ân Lai và các cơ quan khác của Đảng. Một số người tổ chức các cuộc mít-tinh, giương áp-phích, và thậm chí đăng các bài phê phán.

Theo một bức thư từ biên tập viên tờ Quang minh Nhật báo, sau năm 1949, “các trí thức đã nồng nhiệt ủng hộ Đảng và chấp nhận sự lãnh đạo của Đảng. Nhưng trong một vài năm qua, mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng đã không tốt và đã trở thành một vấn đề của đời sống chính trị của chúng ta mà cần sự chấn chỉnh cấp bách. Then chốt của vấn đề là ở đâu? Theo ý kiến của tôi… Tôi nghĩ rằng một đảng lãnh đạo một quốc gia không giống như một đảng sở hữu một quốc gia; công chúng ủng hộ Đảng, nhưng những thành viên của công chúng vẫn chưa quên rằng họ là những người chủ của quốc gia.”

“Các Đảng viên, nhờ việc chiếm giữ các vị trí lãnh đạo và được ở các vị trí thuận lợi, dường như được hưởng các đặc quyền đặc lợi quá nhiều ở mọi phương diện”, trích một bức thư của một giáo sư đại học.

Nhưng người dân Trung Quốc đã quá ngây thơ, sau bao nhiêu cuộc vận động đẫm máu, thì cuộc vận động này có lý nào lại là nỗ lực chân chính để sửa chữa sai lầm của chế độ? Phong trào “Trăm hoa đua nở” đã trở thành một cuộc tấn công lớn nhất vào những nhà trí thức trong lịch sử thế giới, khi hàng trăm ngàn người vì nói lên suy nghĩ của mình đã bị chụp mũ “khuynh hữu” và bị tấn công.

Sĩ diện, danh từ của một thời trí thức bị xem là ung nhọt
Đấu tố và sỉ nhục những người ở tầng lớp trên như trí thức, tư sản, người sở hữu ruộng đất. Triệt để chặt đức mạch truyền thừa của giới trí thức bằng cách tẩy não thế hệ tiếp theo. (Xem bài: Đảng Cộng sản Trung Quốc rốt cuộc muốn làm gì?)

Mao Trạch Đông ra lệnh vây bắt giới trí thức, xử tử họ hoặc đày đi lao động khổ sai trong các trại cải tạo. Sau đó Mao tuyên bố phong trào đã thắng lợi, nói rằng chiến dịch đã “dụ rắn ra khỏi hang”. Khoảng 300.000 đến 500.000 người đã bị dán nhãn là Cánh hữu, trong đó có nhiều người là trí thức, nghệ sĩ, nhà khoa học và nhà văn.

Trong cuộc vận động chống trí thức do ĐCSTQ phát động từ 1957, Mao Trạch Đông nói rằng: “Tần Thủy Hoàng đáng kể gì? Ông ta chỉ giết có 460 nho sĩ, còn chúng ta đã giết 46.000 thằng trí thức hủ nho ấy chứ. Có kẻ chửi chúng ta là độc tài thống trị, là Tần Thủy Hoàng thời nay. Chúng ta thừa nhận hết, rằng rất đúng sự thực. Nhưng chúng bay nói thế chưa đủ, chúng ta phải nói thêm rằng thực ra còn hơn thế.”

Nhân loại tiến bộ được là nhờ tích lũy kiến thức, nhưng dưới chế độ ĐCSTQ, đạt được kiến thức lại bị coi là xấu. Những người trí thức bị xếp vào loại hôi thối thứ chín, tệ nhất trên bậc thang từ một đến chín. ĐCSTQ bảo những người trí thức phải học hỏi những người mù chữ, và cần phải bị giáo dục lại bởi những người nông dân nghèo để được cải tạo và bắt đầu một cuộc sống mới.

Mao Trạch Đông tuyên dương “phủ bùn khắp người và làm chai đầy tay”, rằng mọi người là tốt khi “tay lem luốc và chân dính phân bò” (theo “Buổi nói chuyện tại diễn đàn Diên An về Văn học và Nghệ thuật 1942” của Mao). Những người như vậy được coi là có tinh thần cách mạng cao nhất, và có thể học đại học, được kết nạp vào Đảng, được thăng chức và cuối cùng sẽ trở thành những người lãnh đạo. Điều đó thậm chí làm đảo lộn lý niệm sạch – bẩn, tốt – xấu của người ta. Vẻ ngoài lem luốc giờ được xem là trong sạch nhất.

Cũng chịu ảnh hưởng của cuộc đại cách mạng văn hóa và phong trào chống trí thức này, mà từ “sĩ” bị xem như một sự sỉ nhục, và ở Việt Nam, từ “sĩ diện” khoác lên mình hàm nghĩa xấu. Kỳ thực từ “sĩ”, hay người trí thức, vào thời cổ là có hàm nghĩa rất cao xa.

Hàm nghĩa chân chính của “sĩ”

Cuốn “Luận ngữ” bàn về sĩ như sau: “Hành dĩ hữu sỉ, sử vu tứ phương, bất nhục quân mệnh”. Trí thức là một người phải chịu trách nhiệm đối với chính hành vi của mình, có ý thức trách nhiệm, có cảm giác xấu hổ và luôn lo sợ nhân cách, phẩm chất của bản thân mình bị vấy bẩn. Khi bản thân gánh vác trọng trách thì luôn có ý thức bảo vệ lợi ích quốc gia. Bất luận là đi đến địa phương nào thì họ đều có thể hoàn thành nhiệm vụ mà mình gánh vác một cách tốt nhất. Người như thế sẽ không bao giờ làm ra những việc khiến quốc gia phải hổ thẹn và nhân cách của mình bị sỉ nhục. Đây được gọi là “sĩ”.

Sĩ diện - Danh từ của một thời trí thức bị xem là ung nhọt
(Tranh: Thomas Allom, Wikipedia, Public Domain)

“Luận ngữ” cho rằng “sĩ” cũng chia làm mấy hạng người, cao thấp khác nhau. Trong đó hạng kém cỏi hơn cũng phải là người mà gia tộc họ hàng ai ai cũng đều ca ngợi là người con có hiếu, đối với hàng xóm láng giềng thì thân mật hữu hảo. Hạng kém hơn nữa thì cần “ngôn tất tín, hành tất quả”, nói lời giữ lời, đưa ra lời hứa thì nhất định phải thực hiện được, làm việc gì cũng phải nghiêm túc chịu trách nhiệm đến cùng, có thủy có chung, có đầu có cuối. Tuy vậy loại “sĩ” như vậy không phải là kẻ có tầm nhìn và hoài bão cao xa, làm việc chỉ là để lấy mấy đấu gạo, kiếm tiền sống tạm qua ngày, nông cạn và cố chấp. Đối với việc của bản thân thì họ có thể đảm nhận được, còn đối với việc quốc gia đại sự thì không nhất định có thể gánh vác được. Người như thế chỉ tạm được xưng là “sĩ”. Nhưng suy cho cùng thì họ cũng không phải là người có chí lớn, không đáng được tôn sùng.

Có thể nói, kẻ sĩ trong văn hóa truyền thống là một người được tôn trọng bậc nhất trong xã hội, mà ở đỉnh cao nhất là người mà từ nhân cách, đạo đức, phong thái, cho tới tài năng đều vượt xa người thường.

Khi các giá trị truyền thống bị ma hóa trong lòng người dân vì tuyên truyền, thì hình ảnh những người trí thức chân chính cũng mờ nhạt theo. Ngày nay, không chỉ là “sĩ diện”, mà cả “diện” thông thường nhất người ta cũng không còn giữ được: không chú ý lễ nghi lịch sự, mặc quần áo ngủ ra ngoài đường, ăn mặc hở hang khoe hết mọi thứ, v.v.. Tại nhiều cửa hàng quán xá nước ngoài, người ta đã phải ghi biển cấm bằng tiếng Trung và tiếng Việt. Đây có phải là hậu quả của việc không biết giữ “sĩ diện” không?

Hy Vọng